Xứ Quảng với câu đối xưa và nay
Trong tâm thức người Quảng Nam nói riêng và người Việt nói chung xưa và nay, nghệ thuật chơi câu đối, dùng câu đối trong giao tiếp, ứng xử, sinh hoạt, đặc biệt trong dịp tết Nguyên Đán là một nét đặc sắc của văn hóa dân tộc vẫn luôn được lưu giữ và trân trọng.
Thời xưa, trong dịp tết cổ truyền, một trong các nét đặc trưng, cùng các hình ảnh, màu sắc, âm thanh, hương vị tết, “câu đối đỏ” như là một trong các thứ tiểu khiển, là món ăn tinh thần thú vị không thể thiếu trong Nhân dân. Tết đến, người ta thường dùng những câu đối hàm súc, viết bằng mực Tàu trên giấy đỏ để trang trí cho nhà cửa, qua đó cũng gửi gắm lời chúc mừng năm mới tốt đẹp đến ông bà, cha mẹ và những người thân quý của mình; hoặc để bày tỏ ước nguyện, cầu mong, thể hiện niềm tin vào một năm mới tốt đẹp, vạn sự như ý như:“Thiên thiêm tuế nguyệt nhân thiêm thọ/Xuân mãn càn khôn phúc mãn đường”.(dịch nghĩa:Trời thêm năm tháng, người thêm thọ/ Xuân khắp đất trời, phúc khắp nhà); “Én bay ngoài ngõ xuân hạnh phúc/ Hoa nở trong nhà tết an khang”. Cùng với những câu đối được tạc, chạm, “ký thác” trên các phương tiện giấy, vải, gỗ, đá,… tại những nơi trang nghiêm như đền thờ, lăng tẩm, tiền hiền, miếu mộ, gia đường,… câu đối tết ngày xưa là một mỹ tục, gợi lên một ý niệm sống, hướng con người đến vẻ đẹp chân, thiện, mỹ, lưu truyền những giá trị văn hóa riêng của dân tộc ta.
Ngày nay, thời đại số hóa với rất nhiều đổi mới trên tất cả các phương diện. Cái thời ông đồ cho chữ, viết câu đối tết“Bày mực Tàu giấy đỏ/ Bên phố đông người qua” (Ông đồ- Vũ Đình Liên) đã lùi sâu vào ký ức. Nhưng điều đáng trân quý, câu đối vẫn còn sức sống riêng của nó trong tâm thức Việt. Người ta chọn viết câu đối bằng chữ thư pháp trên giấy, khắc chạm trên gỗ, viết hoặc thêu trong các tấm liễn, bức tranh,… để trang trí nhà cửa hoặc đặt ở những nơi tôn nghiêm. Từ Bắc chí Nam, từ thành thị đến nông thôn, tại các shop hàng mỹ nghệ, trên các tác phẩm điêu khắc, tượng gỗ, tranh ảnh, các bức hoành phi,... câu đối thường được chọn đề vào một cách thích hợp với các chủ đề phong phú, đa dạng, đã tôn hẳn giá trị cho các mẫu mã sản phẩm, tạo sức thu hút lớn. Rồi từ phố về quê và ngược lại, cùng với các phẩm vật khác, gắn với nhiều phương cách, câu đối được hiện diện trong không gian các gia đình, cộng đồng, trường học,… “Vời vợi non cao ơn dưỡng dục/ Mênh mông biển rộng đức sinh thành”;” Cây chung nghìn nhánh sinh tại gốc/ Nước chảy muôn dòng phát tại nguồn; “Lớp học năm xưa nhiều kỷ niệm /Sân trường ngày cũ lắm ước mơ”,... Và theo đó, bất cứ ở đâu, trong cảnh huống nào hễ có một vế đối, một câu đối hình thành, là ở đó có sự kết tinh của nét đẹp văn hóa cổ kim với sức sống Việt mang đến sự mới mẻ cho tâm hồn, thấm đậm chất trí tuệ.


Tại Quảng Nam, vùng đất học nổi tiếng đã xuất hiện nhiều danh sỹ tài hoa với nghệ thuật dùng câu đối. Trong sách“Hà Đình văn tập”của cụ Nguyễn Thuật (1842-1911) - danh sĩ và là danh thần triều Nguyễn- người làng Hà Lam, huyện Lễ Dương, phủ Thăng Hoa, trấn Quảng Nam (nay là thị trấn Hà Lam, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam) có đến 244 câu đối, “ông có nhiều thành tựu với mảng câu đối phúng điếu các anh hùng, danh sĩ, quan chức đồng liêu, người thân, tri kỷ. Giá trị văn chương của câu đối của cụ cũng được giới văn chương đánh giá là tuyệt hảo” 1 .Những câu đối chúc phúc nhân mùa xuân của người con quê ở Hà Lam, Thăng Bình, vị quan đại thần triều Nguyễn - danh nhân văn hóa Nguyễn Thuật đã trở thành mẫu mực cho các Nho sĩ đương thời: “ Nhơn thích lạc dao phong vật mỹ/ Xuân hồi đại địa tuế hoa tân (Người vui thích gió đồng nội cái gì cũng đẹp đẽ/ Xuân về tết đến, hoa nở sáng lại đất bao la); “Nhơn tại xuân đài diên tuế nguyệt/ Thế tư đức thọ phước nhi tôn” (Người sống trên đền đài, mùa xuân kéo dài năm tháng/ Từng đời lan mãi cây đức hạnh là phước của cháu con).
1. Trích Hà Đình Nguyễn Thuật, một con người của văn chương, nghệ thuật-Phùng Tấn Đông
Tâm đắc với câu đối, từ xưa đến nay, “ôn cố tri tân”, người Quảng Nam vẫn thường dùng câu đối trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Cụ Lương Bá Thiệu ( 1915-2007), quê ở xã Bình Giang, huyện Thăng Bình, cán bộ lão thành cách mạng, đã để lại câu đối sâu xa răn dạy con cháu:“Gia phong nho nhã mỹ cảnh hương/ Quốc Tộ thái hòa hưng thiện tục”.( Nghĩa là: Nếp nhà thâm hậu đẹp quê hương/ Vận nước yên bình, dựng nên thói tốt). Nhằm ca ngợi công đức, tri ân tổ tiên, tiền bối thì các tác giả đã dùng các câu đối sau: “Tiên tổ ngàn năm linh hiển/ Tử tôn vạn thuở hiếu hòa”( NS. Phan Văn Minh ); “Thuở hồng hoang tiền bối góp công lập ấp/ Thời hiện đại hậu sinh chung sức xây làng” ( Lê Bích ). Bên cạnh đó, như món ăn tinh thần, câu đối còn được thông dụng phong phú, đa dạng trong cuộc sống. Ví như khi quét ngõ thì cho rằng:“Chổi rang khô quét lá khô ran” (Trần Ngọc Anh), rồi được đối lại:“ Cây thắm tươi nở hoa tươi thắm”. Đến nơi tham quan lại thốt lên: “Ngắm nước non bên chùa Non Nước” ( Trần Ngọc Anh), đối lại: “Sống an bình trong xã Bình An”. Lúc ngồi vào bàn ăn, thấy món cá mó thì lại đọc vế đối:“Có má được ăn cá mó” hoặc tương tự: “Có bà được ăn cá bò”. Khi đón năm mới, lại nghĩ ra các vế đối, câu đối phù hợp từng niên con giáp như:“Đón Canh Tý thử tý tửu” ( “thử”: chuột, “tý”: chỉ một lượng nhỏ và nghĩa Hán cũng là “chuột”); “ Chào Kỷ Mão cảo thơm, cơm thảo” ( “kỷ mão” nói lái là“ cảo mỹ”, có thể hiểu như “cảo thơm”);“ Tết Quý Dậu chưng chậu mồng gà”; “Xuân Giáp Thìn, ăn Đào Tiên, xem múa Rồng, vui Thăng Long khai hội”,...
Phát huy truyền thống yêu nước và cách mạng của quê hương Quảng Nam, trong dân gian không thể thiếu các vế đối, câu đối phản ánh sự đổi mới, sáng tạo, khát vọng phát triển; sinh khí mới trên mảnh đất “ơn trọng nghĩa dày” xứ Quảng :“Năm mới, đổi mới sáng tạo mới”;“Đại lộ Võ Chí Công khai thông kết nối”; “Dân chủ, kỷ cương, đoàn kết, sáng tạo/ Đổi mới, phát triển, hạnh phúc, văn minh”; “Tết đến trăm hoa khoe hương đất/ Xuân về vạn lộc ngát tình quê”; “ Quả ngọt hoa thơm lan khắp nẻo/ Tình thâm, nghĩa trọng tỏa muôn nơi”.
Rất chí lý, thời nay, chỉ cần phút giao thừa tích tắt là người ta dễ dàng gửi qua internet, zalo, fcebook,…những vế đối hay, giàu ý nghĩa để chúc mừng năm mới nhau:“Phúc lộc thọ tài an gia chủ/ Kiệm cần liêm chính đắc nhân tâm”. Trong các cuộc hội ngộ đầu xuân, đó đây, bàn về câu đối tết cũng là đề tài rôm rả, ý vị đối với những người mê câu đối. Được biết, tại một số trường học, hằng năm, trước khi nghỉ tết, nhà trường đã tổ chức cuộc thi viết câu đối với các chủ đề. Sau tết, tổ chức trao thưởng cho các câu đối chuẩn và hay của học sinh, nhằm hình thành, khơi dậy và tập cho các em làm quen với loại hình nghệ thuật ngôn từ và hiểu được một mỹ tục truyền thống là câu đối trong văn học: “Vở sạch chữ đẹp, xuân về tô sắc thắm/ Việc tốt người hay, tết đến nở hoa thơm”; “Kính thầy yêu bạn- vui xuân rộn rã bài ca đón tết/ Trọng cha quý mẹ- mừng tết xôn xao câu đối chào xuân”. Trong môi trường giáo dục nào, câu đối được dùng đúng lúc, phù hợp hoàn cảnh, chắc chắn sẽ mang đến sự bất ngờ, lý thú và lan tỏa được các giá trị.
Có thể khẳng định, ngày nay, khi cuộc sống càng văn minh hiện đại, câu đối Tết không chỉ vẫn luôn được lưu truyền mà còn được nhân lên vẻ đẹp với một sức sống văn hóa riêng trong tâm hồn các thế hệ Việt Nam. “Ơn tiền bối dựng cơ đồ vinh hiển/ Nghĩa cha ông xây sự nghiệp vững bền/ Chí hậu sinh nuôi khát vọng phồn vinh/ Hướng con cháu mơ tương lai hạnh phúc”, người viết xin được khép lại bằng câu đối trên như gửi đến một lời tri ân sâu sắc các bậc tiền bối và mong ước cho câu đối- tinh hoa của tinh hoa chữ nghĩa - luôn được trân trọng lưu giữ, truyền đời, góp phần tô đậm thêm ý nghĩa của cuộc sống ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.